Chương V
Đường lối xây dựng nền KTTT
định hướng XHCN
Câu
1: Đặc trưng cơ chế tập trung; bao cấp và cơ sở KTTT định hướng XHCN
Nội dung
• Tìm hiểu về cơ chế
• Đặc trưng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
• Hình thức bao cấp
• Ưu nhược điểm
• Nhu cầu đổi mới cơ chế
• Tìm hiểu về cơ chế
• Đặc trưng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
• Hình thức bao cấp
• Ưu nhược điểm
• Nhu cầu đổi mới cơ chế
Trả
lời
Năm
1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thăng
lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng và tiến bước lên con đường Xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành cải tạo Xã hội chủ nghĩa, từ năm 1960 miền Bắc bắt đầu áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cả nước bước vào thời kỳ Xây dựng và Phát triển kinh tế-xã hội. Định hướng của Đảng và Nhà nước: Xây dựng nền kinh tế theo mô hình KHH tập trung.
lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng và tiến bước lên con đường Xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành cải tạo Xã hội chủ nghĩa, từ năm 1960 miền Bắc bắt đầu áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cả nước bước vào thời kỳ Xây dựng và Phát triển kinh tế-xã hội. Định hướng của Đảng và Nhà nước: Xây dựng nền kinh tế theo mô hình KHH tập trung.
Trước
hết, tìm hiểu về cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung: là do Nhà nước
quyết định toàn bộ đối với mọi hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế
vận động phát triển tuân theo những quy định bắt buộc của Nhà nước chứ không
tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Nhứng vấn đề cơ bản nhất của nền
kinh tế là, sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Đều do Nhà
nước quyết định. Nhà nước thục hiện bao cấp toàn bộ đối với nền kinh tế. Cơ chế quản lý của kinh tế kế hoạch hóa tập
trung là cơ chế: tập trung quan liêu bao cấp và cơ chế tự do, hay ( cơ chế xin
– cho). Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì bộ phận kinh tế Nhà nước,
kinh tế tập thế ( hợp tác xã) là trung tâm và giữ vai trò chủ đạo của nền kinh
tế, các thành phần kinh tế khác hầu như không được chú trọng. Trước đổi mới, cơ
chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những đặc
điểm chủ yếu là:
Thứ
nhất, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là nền kinh tế chỉ có hai thành phần
sở hữu về tư liệu sản xuất là: Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể, được thể hiện
dưới dạng Quốc doanh và Hợp tác xã. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng
mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ
trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của nhà
nước. Tất cả phương hướng sản xuất, vật tư, vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ
máy, nhân sự, tiền lương,…đều do nhà nước quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế
hoach, cấp phát vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp nộp lại sản phẩm cho nhà
nước. Lỗ thì nhà nước chịu lãi thì nhà nước thu.
Thứ
hai, nền kinh tế hai thành phần chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước thông
qua kế hoạch hóa là khâu trung tâm. Các cơ quan can thiệp sâu vào mọi hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về
vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất
do các quyết định sai lầm gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các
doanh nghiệp không được quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng
không bị ràng buộc trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Thứ
ba, động lực cơ bản của vận động kinh tế là sự giác ngộ cách mạng của đội ngũ
cán bộ, công nhân viên chức, và kỷ luật hành chính, được tạo bởi công tác chính
trị, tư tưởng công tác động viên tinh thần.Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan hệ hiện vật là chủ yếu còn quan hệ hàng hóa – tiền tệ không được
coi trọng mà chỉ là hình thức. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp
phát – giao nộp”. Vì vậy, sức lao động hay các văn bằng phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thư
tư, bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng động gây
ra tình trang cửa quyền quan liêu, hách dịch nhưng lại được hưởng chế độ, quyền
lợi cao hơn người lao động.
Trong
đó, cơ chế tập trung bao gồm ba hình thức bao cấp.Bao cấp về giá: Nhà nước
quyết định giá trị tài sản, vật tư, thiết bị hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế
của chúng nhiều lần so vơi giá cả thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ mang
tính hình thức. Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân
phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên chức, người lao đông theo
định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với
giá cả thị trường đã biến chế độ tiền lương thành hiện vật. Do đó, đã không
kích thích được người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn bằng ngân sách nhà nước, nhưng lại không có
chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều
này đã làm tăng gánh nặng đối với ngân sách và làm cho đồng vốn được sử dụng
kém hiệu quả dẫn đến nảy sinh cơ chế “xin – cho”.
Trong
thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng ( Đặc biệt trong hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh) thì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung
có những ưu điểm nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế
vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là
trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên công nghiệp nặng. Trong hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
đáp ứng được yêu câu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược, mục tiêu
của cả nước là giải phong dân tộc bởi vậy thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ
huy động được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế để
thực hiện mục tiêu đó, đây là nhiệm vụ chung chứ không của riêng ai. Nhà nước
thực hiện bao cấp hoàn hoàn, giúp cho người chiến sỹ ra chiến trường cũng yên
tâm phục vụ chiến đấu hơn.
Tuy
nhiên, cơ chế quản lí vẫn còn nhiều hạn chế: thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự
phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật; triệt tiêu động lực kinh tế đối với
người lao động, không kích thích tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản
xuất kinh doanh; làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính
nhà nước trở quan liêu, lộng quyền, hách dịch; khi nền kinh tế thế giới chuyển
sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu
của khoa học công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập
trung càng bộc lộ những khiếm khuyết cảu nó, làm cho nền kinh tế xã hội của các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây ( trong đó có nước ta) lâm vào tình trạng khủng
hoảng, trị trệ. Trước nhũng hạn chế đó, chúng ta đứng trước hai nhu cầu : thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; các chủ trương, chính sách đổi mới từng phần
từ năm 1979 đến năm 1985 và nhu cầu phải đổi mới triệt để cơ chế kế hoạch tập
trung quan liêu, bao cấp. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế trở
thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
Tóm
lại, Ở nước ta Đảng và nhà nước ta thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch
hóa tập trung từ năm 1954 đến năm 1986, trong giai đoạn đầu, đất nước có chiến
tranh cơ chế này đã thể hiện sự phù hợ và đúng đắn, đáp ứng được những yêu cầu
của thời chiến, chính vì vậy nó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhưng sau nay 1975 khi đất
nước ta hoàn toàn thống nhất, thì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung
đã không còn phù nữa. Chính vì do duy trì quá lâu nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung tù 1954 – 1986 đã làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng nghiêm trọng nhất là trong thập niên 80 của thế kỉ XX và đến năm 1986
Đảng và Nhà nước ta đã phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế -
xã hội.
Câu 2: Sự hình thành tư duy của Đảng về
Kinh tế thị trường thời kì đổi mới
Trả lời
a) Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI
đến Đại hội VIII
-
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại
-
Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
-
Có thể và cần
thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
b)
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X
- Đại hội IX khẳng định: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
- Đại hội X làm rõ hơn về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta, thể hiện trên 4 tiêu chí.
Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền
Bắc , Đảng đã xác định đưa đất nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN. Khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng thì cả nước bước vào thời kì
quá độ lên CNXH. Đại hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh
tế với đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Tư
duy của Đảng về cơ chế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII: Đây là
giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường.
So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay
đổi căn bản và sâu sắc:
Một
là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản
mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển sản
xuất xã hội cho thấy sự sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan
trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Thị trường giữ
vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền
kinh tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường
thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có
mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát
triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa
đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa
phụ thuộc vào nhau.
Trao
đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên,
kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát
triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, đối lập với kinh tế tự
nhiên nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy
mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường là
kinh tế hàng hóa phát triển cao. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công
nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao. Kinh tế thị
trường có lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ
rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế
thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư
bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con
người trong xã hội đó. Điều đó khiến người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường
là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản không sản
sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế
hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản
mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi
nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư
bản.
Hai
là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội: Kinh tế thị trường xét dưới góc độ "một kiểu
tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là
phương diện điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường
chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các
chế độ xã hội khác. Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng
bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại
và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường
vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công
hữu và phục vụ cho chúng.
Vì
vậy, kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn
tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát
triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất
nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định kinh
tế thị trường. Đại hội VII của Đảng (6/1991) trong khi khẳng định chủ
trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy
thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung
cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan
trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn
tại khách quan và cần thiết cho kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là "cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước" bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các
công cụ khác.
Trong
cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự
nguyện, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần
kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội. Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba
là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta: Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã
hội, nó còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân
loại, bản thân kinh tế thị trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh
tế thị trường có thể được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm
phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế thì kinh tế thị
trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau: Các chủ thể kinh tế có tính độc
lập, có quyền tự chủ trong sản xuất; kinh doanh, lỗ - lãi tự chịu; Giá cả cơ
bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn
hảo; Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của
kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh; Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Với
những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất to lớn đối với
phát triển kinh tế - xã hội. Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là
chủ yếu còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế
hoạch do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị
trường, nếu biết vận dụng đúng thì có vai trò rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Có
thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng
tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa
quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cải lạc hậu, yếu kém. Thực tế cho
thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế
thừa và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát
triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã minh chứng sự cần thiết và hiệu
quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ
Đại hội IX đến Đại hội X Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế
thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như
một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác định KTTT XHCN là “ Một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và
chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong
nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ
thuật – của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng
xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh,
tiên tiến hiện đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ
cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc”. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói
đến kinh tế không phải là kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, cũng không phải kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ
các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình
kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X
đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục đích của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “ dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản
xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
khỏi nghèo và từng bước khá giả hơn”.Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát
triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế
để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những thành quả
phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục
vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: Phát triển
các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế là nhằm giải phóng
mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và
mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong
nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ
chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò
chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế
bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao
chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin cho hay độc quyền kinh doanh. Mặt
khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa vào
nền tảng của sở hữu toàn dân các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã
hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người.Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa đảm bảo sự phát
triển bền vững, vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế,
hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển
con người.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã
hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế
cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt
định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự
quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm
bảo mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.
Những tiêu chí trên vừa thể hiện tính
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện
sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Câu 3: Mục tiêu,
quan điểm, và chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trả lời
Ngày
nay nền kinh tế thị trường được áp dụng khá phổ biến ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Sau Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) xác định nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cho thấy, Sau hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho thể
chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã đi vào
cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề cần
thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
Trước hết, ta cần tìm hiểu về thể chế
kinh tế thị trường. Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể
chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế
giáo dục… Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm
điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ
kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc,
luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh
hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm: Các quy
tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường – các bên tham gia thị trường
với tư cách là các chủ thể thị trường; Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt
được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn; Các thị
trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các yêu cầu, quy định
của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động,
công nghệ, bất động sản…).
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu
sự chi phối của các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là thể chế kinh tế
thị trường, trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác
tạo lập và sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân
dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nói cách
khác, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa là công cụ hướng
dẫn cho các chủ thể trong nền kinh tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế - xã
hội tối đa, chứ không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa.
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề mới và phức tạp, là một quá trình,
có nhiều giai đoạn. Trong hơn 20 năm đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được hình thành trên những nét cơ bản.
Về mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta làm cho nó phù
hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội
nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản
vào năm 2020. Đến năm 2020, cần đạt mục tiêu, trong đó mục tiêu thiết yếu nhất
là từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đảm bảo cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế
và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng
công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản lý hiện đại, có năng lực canh tranh
quốc tế.
Đồng thời, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và
phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Song song phát triển đồng
bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên
thông với thị trường khu vực và thế giới. Thêm nữa, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường. Cuối cùng cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Về quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường:
Một là, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc
tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế.
Hai là, chủ động, tích cực với quyết tâm
chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và tổng kết những vấn đề
thực tiễn quan trọng về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đồng thời phải có bước đi vững chắc,vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Ba là, bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ
phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị
trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường.
Bốn là, kế thừa có chọn lọc thành tựu
phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực
tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời bảo
đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên
cơ sở mục tiêu và quan điểm cơ bản, Đảng đã đưa ra một số chủ trương tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần thiết sử dụng kinh
tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội; kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế
thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội
và các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế về sở hữu và
các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh
doanh.
Về hoàn thiện thể chế sở hữu: Khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước, đồng thời đảm bảo và tôn
trọng các quyền của người sử dụng đất.Tách biệt vai trò của Nhà nước với tư
cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ
sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của
Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Quy định
rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên quan đối với các loại
tài sản. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với xã hội. Bổ
sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập
thể, các hợp tác xã, bảo về quyền và lợi ích của xã viên đối với tài sản. Tạo
cơ chế khuyến khích liên kết giữa sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân, làm cho chế độ sở hữu cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu
chủ yếu của doanh nghiệp trong nền kinh tế.Ban hành các quy định pháp lý về
quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Về hoàn thiện thể chế về phân phối: hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo
hướng đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế
thị trường và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của nhà nước,
đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối và phân phối lại phải
đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người lao động và của doanh nghiệp,
tạo động lực cho người lao động. Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các chủ thể trong nền kinh tế. Đổi mới, sắp xếp lại, phát triển, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước để phát huy vài trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thu hẹp các lĩnh vực độc quyền nhà nước. Đổi mới, phát triển các hợp tác
xã, tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ,
bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Thực hiện nghiêm túc, nhất quán
một mặt bằng pháp lý kinh doanh không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần
kinh tế…Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập
phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng
bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Hoàn thiện khung pháp lý cho kỹ kết và
thực hiện hợp đồng. Đồng thời hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường
và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị
trường và cam kết quốc tế. Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và dịch vụ
theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Tự do hóa thương
mại và đầu tư phù hợp cam kết quốc tế. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường và tăng cường kiểm tra chất
lượng hàng hóa, dịch vụ và xử lý sai phạm. Phát huy tốt vai trò điều hành thị
trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa kiểm
soát lạm phát và từng bước mở rộng thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng
cho phù hợp với cam kết quốc tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán,
tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu
loại thị trường. Tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các
thành phần kinh tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm,
thực hiện lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập quốc tế;
hoàn thiện luật pháp, cơ chế thị trường; hoàn thiện luật pháp chính sách về
tiền lương, tiền công, trong đó tiền lương phải được coi là giá cả của sức lao
động hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động.
Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính
sách quản lý, hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu , ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường,
nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thị trường công nghệ. Nhà nước
tăng đầu tư và đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa cho các ngành giáo dục, y tế, văn
hóa, thể dục, thể thao. Nhà nước ban hành tiêu chuẩn, tiêu chí về các hoạt động
dịch vụ này, tăng cường quản lý nhà nước để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị
trường đối với các hoạt động dịch vụ.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách
phát triển và bảo vệ môi trường
Thực hiện chính sách khuyến khích làm
giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng nông thôn,
miền núi, vùng dân tộc và các căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo
nhằm mục tiêu ổn định và tạo động lực cho sự phát triển. Chính sách đó tạo điều
kiện để mọi công nhân nắm bắt cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống,
được hưởng thành quả chung của sự phát triển.
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng
và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện, bảo đảm quyền lợi
của người tham gia bảo hiểm. Chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội, bảo đảm cho
họ có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cuộc sống và tự vươn lên. Phát
triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ xã hội.
Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo
vệ môi trường, có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm, xử lý triệt
để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn không để phát sinh
thêm.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế về vai trò
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần
chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ ở chỗ
chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy
đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nhứng
nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.
Đổi mới và nâng cao vai trò, hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước thể hiện rõ ở chỗ
phát huy mặt tích và hạn chế, ngăn ngừa phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Các tổ chức dân cư, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân có vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy vai trò
của họ, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo
điều kiện để các hình thức tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả
vào quá trình hoạch định, thực thi, giám sát thực hiện luật pháp, các chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh gay
go, quyết liệt cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Đại hội toàn quốc lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã mở ra một thời kỳ mới, đổi mới
toàndiện cả kinh tế và xã hội, có ý nghĩa như cuộc cách mạng toàn diện, triệt
để và rất sâu sắc.
Câu 4: Kết quả, ý nghĩa và hạn chế và
nguyên nhân quá trình xây dựng KTTT đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở VN?
Trả lời
Sau đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành
công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những thành
tựu nổi bật của công cuộc đổi mới, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, nhận thức lý luận và tư duy kinh
tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào xây dựng đường lối kinh tế của Đảng.
Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, tạo
hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình
thành và phát triển.
Hai là, chế độ sở hữu và cơ cấu các thành
phần kinh tế đã đổi mới cơ bản, từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu chuyển sang nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong
và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra
đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu
vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được Nhà nước bảo vệ, tự chủ, tự
do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế được
đổi mới, từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản
xuất kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô
khác.
Năm là, việc gắn phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, xoáđói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Có thể thấy rõ quá trình xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu
của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, biểu hiện đầu
tiên là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và
chưa thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai, tài nguyên, tài
sản công…còn nhiều bất cập, vướng mắc.Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân
phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự
phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần
hoá. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử.
Bên cạnh đó, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát
triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được khắc
phục. Cùng với phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương
còn mang tính bình quân, chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương, chưa
khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện
tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới
công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Thêm nữa tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của
bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu
quả quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề
ra, tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Hạn chế không thể
không nhắc đến là cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội
đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách
giàu -nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an
sinh xã hội còn kém. Nhiều vấn đề bất
cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém
trên, chủ yếu là do: Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử.Cùng với
nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận
chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Đặc biệt là trong hoàn cảnh đát nước với
kinh vẫn kém phát triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các
thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư còn cao. Một phần cũng là do năng lực
thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý Nhà nước và đội
ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội bức xúc. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế yếu kém còn phụ
thuộc vào vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực
hiện chính sách của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
Trải qua thời kì đổi mới, đất nước ta từ
một nước nghèo nàn, lạc hậu với nền kinh tế tập trung đã chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đây
là mốc thời điểm quan trọng, đánh dấu sự phát triển kinh tế của đất nước. Trước
những khó khăn và hạn chế, cũng như những thành tựu đạt được, Đảng cùng Nhà
Nước tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đẩy mạnh kinh tế, tạo tiền
dẩy nhanh quá trình CNH-HĐH.
No comments:
Post a Comment