Phát triển kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô luôn là mục tiêu hàng đầu của mỗi nền kinh tế và đó là một quá trình lâu dài. Trong quá trình phát triển kinh tế, vai trò của chính phủ là vô cùng to lớn, mỗi quyết định của chính phủ có thể vực dậy nền  kinh tế một cách mạnh mẽ nhưng cũng có thể đưa đất nước đến bờ vực của sự sụp đổ.
Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập sân chơi chung WTO, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ. Vừa hội nhập nền kinh tế thế giới, Chính Phủ Việt Nam đã đặt ra cho nền kinh tế vô vàn mục tiêu to lớn và quyết tâm thực hiện tham vọng đã đề ra.Nhưng vì quá chú trọng đến mục tiêu tăng  trưởng nhanh , chúng ta đã phải trả giá, Chính phủ đã đẩy Việt Nam vào một vòng xoáy lạm phát – suy thoái – tăng trưởng, với bao sóng gió và bất ổn. 
Giai đoạn 2008 – nay có thể coi là giai đoạn sóng gió nhất, là thử thách đâu tiên sau khi Việt Nam chính  thức hội nhập. Bài thảo luận này sẽ mang đến cho các bạn một cái nhìn tương đối tổng quát về nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008 – nay. Hơn thế nữa, qua bài thảo luận, các bạn có thể tự củng cố được kiến thức kinh tế vĩ mô, xem xét tác động của những chính sách vĩ mô  đến sự chuyển biến của nền kinh tế.  
Bài thảo luận gồm 5 phần chính:
-         Quyết định đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, khởi nguồn sóng gió của nền kinh tế Việt Nam
-         2008 – cỗ xe kinh tế bị thắng gấp và những bất ổn của nền kinh tế Việt Nam 
-         2009 -  cỗ xe kinh tế một lần nữa tăng tốc đột ngột với 2 gói kích cầu liên tiếp
-         2010– nền kinh tế hồi phục nhưng bóng mây lạm phát bắt đầu xuất hiện bao phủ nền kinh tế
-         Kinh tế Việt Nam 2011 và bài toán lớn :” LẠM PHÁT”
I.   Quyết định đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, khởi nguồn sóng gió của nền kinh tế Việt Nam
Tốc độ tăng GDP và lạm phát ở các nước Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ, 2002-2007
| 
Quốc gia | 
GDP 2007   (tỷ USD) | 
GDP đầu người năm 2007 (USD) | 
Bình quân   năm  2002-2007 | 
2002 | 
2003 | 
2004 | 
2005 | 
2006 | 
2007 | 
| 
Tốc độ tăng GDP | 
Tốc độ lạm phát năm tính theo chỉ   số giá tiêu dùng (CPI) | ||||||||
| 
Brunei | 
     12 | 
31,759 | 
1.7 | 
-2.3 | 
0.3 | 
0.9 | 
1.2 | 
0.1 | 
0.3 | 
| 
Cambodia | 
         9 | 
     598 | 
11.4 | 
3.2 | 
0.3 | 
3.9 | 
5.8 | 
4.7 | 
- | 
| 
Indonesia | 
   433 | 
  1,869 | 
5.5 | 
11.9 | 
6.8 | 
6.1 | 
10.5 | 
13.1 | 
6.4 | 
| 
Lào | 
         4 | 
       711 | 
6.9 | 
10.2 | 
16.0 | 
10.8 | 
6.8 | 
7.3 | 
- | 
| 
Malaysia | 
   187 | 
  7,027 | 
6.0 | 
1.8 | 
1.1 | 
1.4 | 
3.1 | 
3.6 | 
2.0 | 
| 
Myanmar | 
     19 | 
       379 | 
5.4 | 
57.1 | 
36.6 | 
4.5 | 
10.5 | 
18.9 | 
34.6 | 
| 
Philippines | 
   144 | 
  1,639 | 
5.5 | 
3.0 | 
3.5 | 
6.0 | 
7.6 | 
6.3 | 
2.8 | 
| 
Singapore | 
   161 | 
36,370 | 
7.1 | 
-0.4 | 
0.5 | 
1.7 | 
0.5 | 
1.0 | 
2.1 | 
| 
Thailand | 
   245 | 
  3,841 | 
5.6 | 
0.6 | 
1.8 | 
2.8 | 
4.5 | 
4.6 | 
2.2 | 
| 
Viet   Nam | 
       71 | 
     815 | 
8.1 | 
3.9 | 
3.2 | 
7.8 | 
8.4 | 
7.4 | 
8.3 | 
| 
Ấn Độ | 
1,141 | 
     976 | 
6.8 | 
4.3 | 
3.8 | 
3.8 | 
4.2 | 
6.2 | 
6.3 | 
| Trung Quốc | 
3,400 | 
  2,604 | 
8.8 | 
-0.8 | 
1.2 | 
3.9 | 
1.8 | 
1.5 | 
4.8 | 
Nguồn: Số liệu GDP và CPI ở các nước Đông Nam Á là từ ASEAN Secretariat, nhưng CPI của Việt Nam là số liệuđã điều chỉnh lại củaTổng cục Thống kê Việt Nam. Số liệu GDP bình quân đầu người, GDP bằng USD là từ Cục Thống kê LHQ. CPI của TQ và Ấn Độ là từ Asian Development Bank (ADB).
Giai đoạn  2002 – 2007 là thời kỳ hoàng kim của nền kinh tế Việt Nam, lạm phát luôn được duy trì ở mức thấp, tốc độ tăng trưởng  kinh tế ổn định và được giữu vững ở mức trên 6 %. Chính những sự ổn định về tăng trưởng  kinh tế đó tạo niềm tin to lớn cho chính phủ với tham vọng tăng tốc cố xe kinh tế hơn nữa. Năm 2007, với những kỳ vọng lớn đối với kinh tế Việt Nam, chính phủ đã đề ra mục tiêu tăng trưởng 9% cho năm 2007, phấn đầu hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 ngay trong năm 2008 trong đó có mục tiêu nâng thu nhập bình quân nên mức 1000USD, đưa Việt Nam trờ thành quốc gia có thu nhập trung bình, và mục tiêu này đã chi phối toàn bộ các chính sách về kinh tế năm 2007, bắt đầu cho một giai đoạn bất ổn của nền kinh tế Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Và với việc sử dụng rất nhiều công cụ nhằm kích thích sự phát triển kinh tế trong nước, như tăng đầu tư công chiếm tới 40% GDP, đặc biệt chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông… tăng mạnh mức cung tiền(2004 – 2007 mức cung tiền đã tăng gấp đôi) cùng sự tham gia vào  sân chơi chung WTO VN đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
-                     Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2007 đạt 8,44% đúng thứ  3 châu Á, (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%)
-                     Tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ USD là mức cao nhất từ trước đến nay.
-                     Vốn đầu tư thực hiện năm 2007 ước đạt 5,1 tỉ USD, tăng 1,2 tỉ USD (30,7%) so năm 2006 (39,56 tỉ USD). 
-                     Cùng với tăng vốn FDI, lượng kiều hối đổ về Việt Nam tiếp tục tăng cao, cả năm 2007, lượng kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về qua kênh chính thức đạt 5,5 tỉ USD so với mức 4,7 tỉ USD năm 2006 và gấp 157 lần năm 2001
Từ năm 2004 đến năm 2007, cung tiền tăng hơn 2 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá, tỉ lệ lạm phát tăng chóng mặt. Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng. 
Tuy nhiên, sự phát triển nóng của nền kinh tế đã gây ra nhiều nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế việt nam. Cơ sở hạ tầng và trình độ quản lý ở VN chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh tế, tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng. Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ dừng lại ở mức 8,44%. Chính những sự lãng phí nguồn lực lớn và sự phát triền quá nhanh, bỏ qua những yếu tố bất ổn, còn  tồn tại trong nền kinh tế  đã khởi nguồn cho sự bất ổn của nền kinh tế từ 2008 đến nay.
| 
II.     2008 – cỗ xe   kinh tế bị thắng gấp và những bất ổn của nền kinh tế Việt Nam 
Kinh tế Việt Nam năm 2008 sẽ đi   vào lịch sử như một năm có nhiều biến động gay go nhưng cuối cùng đã “hạ cánh   mềm”. Có thể chia năm 2008 về mặt kinh tế ra ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có   đặc trưng về mục tiêu và chính sách kinh tế khá rõ nét. 
Giai đoạn   1: cỗ xe kinh tế phi nước đại và ủ bệnh 
Từ cuối năm 2007, trong giai đoạn   chuẩn bị và thông qua kế hoạch kinh tế xã hội năm 2008, đến tháng 3-2008,   chính sách kinh tế được chi phối bởi mục tiêu tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các mục   tiêu kế hoạch năm năm sớm (chỉ trong ba năm), vượt ngưỡng nước có thu nhập   trung bình ngay trong năm 2008... 
Mặc dù đã có những cảnh báo sớm từ   cuối năm 2007 về chất lượng tăng trưởng thấp, chất lượng cuộc sống của người   dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ ràng là phải đạt được những   thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước đây. Vì thế, một   loạt chính sách về kinh tế được điều tiết khá “lỏng” và dễ dàng nhằm khuyến   khích sự đầu tư tối đa của khu vực ngoài nhà nước vào phát triển kinh tế. 
Ý chí và mục tiêu đó được sự ủng hộ của các tổ chức quốc   tế và các nhà ngoại giao qua những lời ca tụng không ngớt về những thành tựu nổi   bật của Việt Nam, về vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên   WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an   Liên hiệp quốc...) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào   ạt đổ vào trong nước.  
Trước những thay đổi mạnh mẽ về   luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra phải thực hiện ngay những cải   cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực giám sát, quản lý các   lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động   sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng mở rộng   công khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp   hội chuyên môn trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách. 
Song, trên thực tế Chính phủ đã   dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để đạt các mục tiêu đề ra:   việc phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức cho chính   quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp đất,   mở khu công nghiệp... đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về   quá nhiều công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy   lọc dầu lớn nhỏ. 
Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng,   các quyết định hàng tỉ đô la Mỹ ở các địa phương,  tập đoàn kinh tế,   liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc   dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được quyết định một cách nhanh   chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội đồng thẩm định có   chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần chúng. 
Trong thời gian ngắn đã có trên   200 trường đại học và cao đẳng được thành lập là một trường hợp cũng nằm   trong xu hướng này. Tình trạng này đã nhanh chóng làm trầm trọng thêm những   mất cân đối về điện, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực... 
Việc mở rộng thủ đô Hà Nội - đòi   hỏi một lượng vốn đầu tư khổng lồ và năng lực quản lý đô thị rất cao - gây   nhiều tranh cãi, cuối cùng cũng đã được thông qua trong bối cảnh lạm phát cao   và nền kinh tế đang đối mặt với nhiều mất cân đối. 
Các tập đoàn kinh tế nhà nước vốn   được lập như là một thí điểm (thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh trong một thời   gian quá dài) đã nhanh chóng tranh thủ sự lỏng lẻo về giám sát và quản lý của   các cơ quan nhà nước để đồng loạt “làm thật”: đa dạng hóa đầu tư sang các   lĩnh vực “thời thượng” như chứng khoán, đầu tư tài chính, bất động sản, thậm   chí cả tham gia lập các ngân hàng thương mại. 
Chưa bao giờ trong một thời gian   ngắn các tập đoàn lại đua nhau thành lập nhiều công ty con, công ty cháu,   công ty liên kết nhanh đến như vậy. Tương tự, các công ty đầu tư tài chính,   công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán cũng xuất hiện một cách ồ ạt   như thế. 
Báo chí hàng ngày đưa tin về những   công trình thế kỷ lớn, nhỏ mới được ký kết hoặc khởi công, những phi vụ mua   sắm kỷ lục máy móc, trang thiết bị được mô tả như bản thân việc mua sắm đã là   một thành công kinh tế lớn rồi. Trong không khí phấn khích chung đó, tiêu   dùng cá nhân cũng bùng phát với việc nhập khẩu máy bay, ô tô sang trọng. 
Điều tất yếu phải đến đã đến là cung tín dụng tiếp tục tăng trên 50%, lạm   phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an toàn, thị trường chứng   khoán sụt giảm kỷ lục, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ, hay theo lời   một bộ trưởng là những diễn biến đáng “giật mình”. Lạm phát năm 2008 không   nhừng tăng cao, và có nguy cơ vượt mức 20%. 
Giai đoạn   2: cỗ xe kinh tế bị thắng gấp và phát bệnh 
Từ tháng 3-2008, nhận thấy nguy cơ   bong bóng kinh tế bị xì hơi, Chính phủ đã đột ngột đổi chiều, cỗ xe kinh tế   đang phi nước đại bị thắng gấp bằng tất cả các phương tiện kỹ thuật cho phép   nhằm mục tiêu ưu tiên mới là kiềm chế lạm phát. Mục tiêu tăng trưởng  kinh tế 8,5 – 9% được chính phủ đột ngột   điều chỉnh xuống còn 7%. 
Ngày 17/4, Thủ   tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP, đề ra 8   nhóm biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội   tăng trưởng bền vững và yêu cầu triển khai ngay trong tháng 4 năm 2008: 
Nhóm giải pháp đầu tiên, mang tính mấu chốt mà   Chính phủ đưa ra là thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.  
Thứ hai, Chính phủ sẽ điều chỉnh   chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu   công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính. 
Thứ ba, tập trung sức phát triển   sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về   hàng hóa.  
Thứ tư, Chính phủ chỉ đạo đẩy   mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.  
Thứ năm, Chính phủ kêu gọi mọi   người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng   lượng.  
Thứ sáu, tăng cường công tác quản   lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc   chấp hành pháp luật nhà nước về giá.  
Thứ bảy, tăng cường các biện pháp   hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các   chính sách về an sinh xã hội.  
Thứ tám, các phương tiện thông tin   đại chúng cần đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ   các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông   tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội. 
Trong đó, công cụ được chính phủ áp dụng nhất vẫn là nhóm   một và nhóm hai, cụ thể là: 
-          Để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, Lãi suất cơ bản được nâng lên, dự trữ bắt buộc với   lãi suất rất thấp được áp đặt, tín phiếu bắt buộc được phân bổ, biện pháp hạn   chế tín dụng “hà khắc” được áp đặt lên các ngân hàng thương mại. Lãi xuất   ngân hàng lên mức cao chưa từng có,   đã có lúc lãi suất lên mức đỉnh 24 - 25% /năm, lãi suất huy động cũng đạt   đỉnh 20%/năm. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay cầm chừng, doanh nghiệp vay   vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng   gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong   năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng, cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức   dự kiến khống chế 30%). 
-          Việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt cũng được thực hiện một cách vô cùng quyết liệt. tổng số   công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực   hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ   đồng.Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty   nhà nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng. 
Lãi suất cơ bản được nâng lên, dự trữ   bắt buộc với lãi suất rất thấp được áp đặt, tín phiếu bắt buộc được phân bổ,   biện pháp hạn chế tín dụng “hà khắc” được áp đặt lên các ngân hàng thương   mại, cắt giảm đầu tư... Tất cả biện pháp này gây ra gánh nặng lớn cho các   ngân hàng thương mại cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa. 
Và những công cụ mà chính phủ áp   dụng thực sự đã có hiệu quả rất lớn, cỗ xe kinh tế đã đi chậm lại , lạm phát đã cơ bản được   kiềm chế và có xu hướng giảm. Cụ thể, lạm phát tháng 6 giảm mạnh, chỉ số CPI   chỉ tăng 2,14%, là mức thấp nhất trong 6 tháng qua (T1: 2,38%; T2: 3,56%; T3:   2,99%; T4: 2,2%; T5: 3,91%). 
Tuy nhiên, dường như tiêu   chuẩn của hành động là cường độ của các biện pháp phải thể hiện tính quyết   liệt kiềm chế lạm phát chứ không cần xét đến tác động tới kinh tế hay doanh   nghiệp.  Sự áp dụng quá quyết liệt các   chính sách đã gây nên những nghịch cảnh dở khóc dở cười. Vải thiều Lục Ngạn   chín rụng mà không có người mua vì thiếu tín dụng, cá ba sa đồng bằng sông   Cửu Long rớt giá, lúa bội thu bị ứ đọng vì mua không kịp... là những hiệu ứng   phụ đã xuất hiện, gây ra không ít tổn thất cho nông dân. Hoạt động xây dựng   bị đình đốn và giảm sút nhanh chóng, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này   không còn hoạt động. 
Doanh nghiệp luôn đối mặt với   những bất ngờ từ các phía và không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa đã không đủ sức   vượt qua gánh nặng quá sức về tín dụng, lãi suất, giá cả, biến động thị   trường… đã “lịm dần”. Tình huống này làm nảy nở hoạt động của các loại “cò”   lớn nhỏ chạy chọt quyết định này, xin miếng đất kia... 
Lần đầu tiên trong lịch sử, chỉ số   giá chứng khoán giảm gần 70% trong một năm, thị trường  bất động   sản đóng băng, các công trình xây dựng dở dang gây không ít ảnh hưởng tới cuộc   sống người dân, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ ràng… 
Và với những chính sách quá quyết   liệt, chính phủ đã kìm hãm được cỗ xe kinh tế đang phi nước đại để lại đằng   sau những vẫn đề lớn cần giải quyết. 
Giai đoạn   3: tập trung chữa bệnh 
Bắt đầu từ   quí 3-2008 một sự cộng hưởng ngoài ý muốn giữa hiệu lực của các biện pháp   kiềm chế lạm phát của Chính phủ với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính,   suy thoái kinh tế toàn cầu đã xuất hiện. Giá hàng loạt nguyên vật liệu trên   thế giới giảm mạnh khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm dần và chỉ số giá của   hai tháng 10 và 11 lần lượt giảm thấp hơn tháng trước. Trong bối cảnh thị   trường chứng khoán sụt giảm và đầy biến động, tín dụng bị thu hẹp, số doanh   nghiệp nhà nước được cổ phần hóa đã xuống mức thấp nhất và khó có thể đạt mục   tiêu hoàn thành cổ phần hóa trong hai năm nữa vào năm 2010. Việt Nam đang đứng   trước nguy cơ của một cuổng khủng hoảng kinh tế. trước tình hình đó Ngày 11/12/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những   giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh   tế 
Theo đó, Chính   phủ đã đưa ra chính sách tài chính, tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho   các     doanh nghiệp. Cụ thể, giảm 30%   số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và của năm 2009 đối   với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa;   Giãn thời hạn nộp TTNDN trong thời gian 9 tháng đối với TTNDN phải nộp năm   2009 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói trên (70% số thuế còn lại sau khi giảm)   và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm,   thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử; Tạm hoàn 90% số thuế giá trị   gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp   chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp   10% khi có chứng từ thanh toán...  
Với   những nỗ lực đó, nền kinh tế VN đã ‘ hạ   cánh mềm” năm 2008 với tỷ lệ tăng trưởng đạt 6,23%, thu nhập bình quân đầu   người đã đạt mức trung bình, VN chính thức thoát nghèo. Tổng   GDP ước đạt 88 tỷ USD chỉ tăng trưởng 6,3% trong khi lạm ở mức 23,1%, cao nhất trong 10 năm trở lại đây với sự tăng giá kinh ngạc của giá xăng dầu, dầu thô,   vàng và các mặt hàng xây dựng, thiết yếu khác tuy nhiên những tháng cuối năm   đã phát sinh tình trạng giảm phát. Điểm sáng duy nhất trong năm có lẻ là việc   thu hút được 64 tỷ USD vốn FDI và lãi suất đã giảm đáng kế. 
Chỉ trong năm 2008, các chính sách chính phủ đề ra đã có sự   khác biệt rõ rệt về hướng đi. Giai đoạn đầu    năm 2008, chính phủ đã dùng mọi sức mạnh của mình để thắng gấp cỗ xe   kinh tế đang chạy nước đại do dư âm của các chính sách năm 2007, và chính   sách đó đã phát huy tác dụng quá mức, thay vì làm bánh xe kinh tế trở lại quỹ   đạo ổn định, các chính sách đó cùng với một số nguyên nhân khách quan đã khiến   chính phủ phải gồng mình, dùng hết sức lực để cố giữ ổn định nền kinh tế Việt   Nam trước bờ vực của một cuộc khủng hoảng đang hiển hiện trước mắt, và năm   2009 sẽ thực sự là một năm cực kỳ khó khăn của nền kinh tế Việt Nam với mục   tiêu hàng đầu là tăng trưởng kinh tế. 
Triển vọng kinh tế năm 2009 còn   khó khăn hơn năm 2008. Các khó khăn kinh tế sẽ chuyển thành các vấn nạn xã   hội, vấn đề duy trì việc làm, thu nhập cho người lao động sẽ trở thành nhiệm   vụ hàng đầu. Việc rút ra các bài học một cách nghiêm túc từ tư tưởng chỉ đạo   đến các chính sách kinh tế là rất cần thiết để vượt qua những khó khăn gấp   bội trong khi lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã suy giảm rất nhiều. Tuy   nhiên, mục tiêu của Việt Nam đặt ra cho năm 2009 vẫn rất tham vọng với   GDP tăng 6,5%, xuất khẩu tăng 13%, đầu tư toàn xã hội đạt 39,5% GDP, lạm phát   dưới 15%, thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) 4,82% GDP…. 
Để thực hiện tham vọng to lớn đã đề ra, ngày 15/1/2009,   Thường trực chính phủ  họp dưới sự chủ   trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt kế hoạch sử dụng gói kích cầu   đầu tiên trị giá 17.000 tỷ VNĐ ( tương đương 1 tỷ USD ) để kích thích đầu thông   qua gói hỗ trợ lãi suất 4% thuộc về nhóm biện pháp kích thích chi  đầu tư đối với doanh nghiệp. Có 3 loại hình   hỗ trợ lãi suất vốn vay chính: cho vay ngắn hạn, cho vay trung & dài hạn,   và cho vay phục vụ nông nghiệp & làm nhà ở. Chương trình giảm, giãn thuế   bao gồm: giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập và giảm thuế giá trị gia tăng đối với   một số hàng hóa, dịch vụ. Gói kích cầu này có giá trị không lớn nhưng phần   nào đã giải tỏa được cơn khát tín dụng đối với các doanh  nghiệp. 
Tuy nhiên đầu   năm 2009, những dư địa còn lại từ năm 2008 tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến   toàn bộ nền kinh tế những, gói kích cầu trị giá 1 tỷ USD dường như chưa phát   huy hiệu quả.  Đến hết quý I năm 2009,   tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 3.1% GDP so với cùng kì, xuất khẩu tăng chậm   2.4%, vốn đầu tư tăng 9% song FDI vào Việt Nam giảm tới 32%.Nền kinh tế Việt   Nam tăng trưởng chậm chạp. 
Quyết tâm thực hiện mục tiêu đã đề ra, Ngày 12/5/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố   chính thức về gói kích cầu có giá trị 143.000   tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD) của Chính phủ, sau đó tăng lên 160 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD).   Theo đó, gói kích cầu được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau nhưng về   bản chất, gói kích cầu năm 2009 dựa trên chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng:   tăng tín dụng, giảm lãi suất , tăng chi tiêu công và giảm thuế. Cụ thể các phần   của gói kích cầu này bao gồm:  
 Chính   sách tiền tệ: 
               -  Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng.  
             - Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng   cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng.  
             - Phát hành thêm trái phiếu   Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng. 
             - Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng   cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ đồng 
  Chính   sách tài khóa: 
            - Ứng trước ngân sách nhà nước để   thực hiện một số  dự án cấp bách khoảng    
37.200 tỷ   đồng.  
           - Chuyển nguồn vốn đầu tư  kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200    
tỷ đồng.    
           - Thực hiện chính sách giảm thuế   khoảng 28.000 tỷ đồng. 
         -Các   khoản chi kích cầu khác nhằm   ngăn chặn suy giảm kinh tế,  đảm bảo an 
sinh xã hội   khoảng 7.200 tỷ đồng. 
Sau   khi áp dụng 2 gói kích cầu liên tiếp, nền kinh tế đã có một số chuyển biến   khá tích cực: 
Việc đưa ra gói kích cầu đã ngay lập tức trấn an tâm   lý các nhà đầu tư, tăng lòng tin doanh nghiệp, ngân hang vào trách nhiệm của   Nhà nước trước khủng hoảng. Các doanh nghiệp được tiêp cận nguồn vốn có lãi   suất thấp hơn, góp phần giảm bớt chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm,   tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời một số doanh nghiệp có cơ hội mở rộng sản   xuất, giảm bớt áp lực thất nghiệp, sô người thất nghiệp do đó ở đô thị không   tăng. Cụ thể như sau: 
Dư  nợ theo nhóm tổ chức tín dụng: Nhóm NHTM   nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 274.883,94 tỷ đồng; nhóm ngân   hàng thương mại cổ phần là 108.085,31 tỷ đồng; nhóm ngân hàng liên doanh, chi   nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 20.747,34 tỷ đồng;   công ty tài chính là 8.463,24 tỷ đồng, giảm 99,62 tỷ đồng (tương đương giảm   1,16%).  Dư  nợ phân theo  đối tượng khách hàng vay vốn: Doanh nghiệp   nhà nước 59.379,70 tỷ đồng; doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm   hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước   ngoài …) 287.971,90 tỷ đồng; hộ sản xuất là 64.828,23 tỷ đồng.   
Theo báo cáo cuối năm 2009 của   Bộ Tài chính, ước cả năm, tổng số thuế miễn, giản, giảm khoảng 20 tỷ đồng. Đồng   thời, đã tiếp tục rà soát để bãi bỏ khoảng 140 tỷđồng các khoản phí và lệ phí   khác.  
Trong năm 2009, chính phủ đã   tăng vốn đầu tư công để kích cầu nền kinh tế. Cụ thể, ứng trước 31.393 tỷ đồng   vốn ngân sách cho các bộ, cơquan Trung    ương, các  địa phương,  ước cả    năm 2009 giải ngân  được khoảng   80-85% vốn ứng trước. 
             Gói kích cầu đưa ra đã có những hiệu ứng tích cực ngay trong quý II và   III năm 2009. GDP quý II tăng 4.5% và quý III tăng 5.8%, nâng tốc độ tăng GDP   trong 9 tháng đầu năm 2009 tăng 4.6%so với cùng kì năm 2008, GDP tăng 5,3% trong năm 2009 trong đó quý IV  đã đạt mức 6,9% 
           Nhờ có gói kích cầu đã thúc đẩy xuất   khẩu cả năm đạt 56.5 tỷ USD giảm 9.9% song nhập siêu giảm còn 11 tỷ USD , chiếm   16.5% kim ngạch xuất khẩu ( con sô tưởng ứng của năm 2008 là 18 tỷ USD và   28.8% ). 
Tuy nhiên,   việc cùng lúc tung ra hai gói kích cầu liên tiếp với tổng giá trị tương đối lớn   so với GDP Việt Nam lên tới 10 tỷ USD cũng gây ra rất nhiều hệ quả không mong   muốn: 
Dù đã đạt được những hiệu quả rất tích cực, nhưng những   vấn đề bất ổn vốn có trong nên kinh tế    vẫn chưa được giải quyết tận gốc. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy   thoái kinh tế toàn cầu, bài học được rút ra quan trọng cho nền kinh tế nước   ta là sự bất cập của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều ngang, chủ yếu dựa   vào sự tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia   công hàng xuất khẩu... 
Tuy   nền kinh tế đã vượt qua "đáy suy giảm", nhưng tốc độ phục hồi còn   chậm và đang chịu ảnh hưởng của những biến động của thị trường thế giới, nên   sự trì trệ còn có thể kéo dài trong nửa đầu năm 2010. Nhiều doanh nghiệp đã   phục hồi sản xuất, kinh doanh, nhưng đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thoát   khỏi tình trạng khó khăn, tiếp tục hoạt động trong trạng thái "cầm   cự" để tồn tại, lúng túng về hướng kinh doanh, do sức mua của thị trường   tăng trưởng chậm. Do đó, cần đề phòng xảy ra tình trạng nền kinh tế phục hồi   theo dạng chữ W, nếu có những biến động bất lợi của thị trường thế giới vào   thời điểm đầu năm 2010. 
   Việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất, tăng   dư nợ tín dụng, cùng với việc tăng bội chi ngân sách đang tạo ra nguy cơ gây   tái lạm phát trong thời gian tới do độ trễ của vòng quay tiền. Gói kích cầu   quá lớn có thể dẫn đến nguy cơ thâm hụt ngân sách. Cho đến nay chưa lường hết   "tác dụng phụ" của gói kích thích kinh tế đã và đang áp dụng, nhất   là khó kiểm soát vòng quay của nguồn tín dụng ngắn hạn có nguy cơ sử dụng sai   mục đích, tạo áp lực lạm phát hoặc tạo "bong bóng" ở những lĩnh vực   nhạy cảm với đầu cơ.  
Tóm   lại, nhờ hai gói kích cầu, kinh tế CN 2009 đã đạt được những thành tựu nhất   định, quan trọng hơn cả  là đã xóa bỏ   được nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, những tác động mà hai gói kích   cầu mang lại có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế VN 2010, và 2010 liệu có   phải là khởi đầu cho một giai đoạn ổn định, bền vững của nền kinh tế Việt Nam   ??? 
IV.  2010– nền kinh tế hồi phục nhưng bóng mây lạm phát bắt   đầu xuất hiện bao phủ nền kinh tế 
Quý I/2010   nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với   tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng   trong quý I/2009. Và sau một năm nhìn lại thì kinh tế VN 2010 thực sự có sự   phục hồi ấn tượng: 
-           Mặc dù chịu tác động mạnh bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu   nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ khá cao và cải thiện   dần qua các quý. GDP trong 9 tháng đầu năm tăng 6.52%, và dự báo có thể đạt   được mức tăng 6.7% cho cả năm 2010. 
-           Công nghiệp được xem là mảng tỏa sáng trong bức   tranh kinh tế năm 2010 với phục hồi ấn tượng. Khu vực công nghiệp   và xây dựng 9 tháng năm 2010 tăng 7.29%, cao hơn mức 4.64% của cùng kỳ năm   trước. Trong đó, Trong 11 tháng đầu năm 2010, sản xuất công nghiệp tăng trưởng   13.8%, gần gấp đôi so với mức tăng 7.3% cùng kỳ năm 2009 
-           Trong 9 tháng đầu năm tổng đầu tư tăng 19.8%, tỷ lệ Đầu   tư/GDP lên tới 44% và ước tính khoảng 42-43% trong năm 2010. Tỷ lệ đầu tư này   cao hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á khác, hiện chỉ ở 15-20%. Ước tính năm 2010, vốn đầu tư   đóng góp 44.62% cho tăng trưởng và đây là mức đóng góp cao nhất từ trước tới   nay 
-           Xuất khẩu tăng mạnh bất chấp xuất   khẩu dầu thô giảm. Tăng trưởng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở mức cao, đạt   gần 40% 
        Bên cạnh sự hồi phục khá ấn tượng thì   nền kinh tế VN vẫn còn khá nhiều vấn đề, đặc biệt là hai gói kích cầu với giá   trị lớn, trong điều kiện sử dụng vốn chưa hiệu quả và cơ sở hạ tầng hạn chế   đã làm bộc lộ những vẫn đề hạn chế của nền kinh tế VN: 
-           Nhập khẩu cũng tăng mạnh trở lại do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm Thâm hụt thương mại cao và mất cân đối cán cân thanh toán khiến cân bằng nền kinh tế thấp và nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn bên ngoài làm tỷ giá đồng tiền luôn bị biến động mạnh   
-             Nhập khẩu cũng tăng mạnh trở lại   do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm Thâm hụt thương   mại cao và mất cân đối cán cân thanh toán khiến cân bằng nền kinh tế thấp và   nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn bên ngoài làm tỷ giá đồng tiền   luôn bị biến động mạnh  
-           Năm 2008, thâm hụt   thương mại lên tới đỉnh điểm 18 tỷ USD, bằng gần 20% giá trị GDP. Trong năm   2009 và 11 tháng đầu năm 2010, thâm hụt thương mại giảm xuống còn 12.84 tỷ   USD và 10.5 tỷ USD.Như vậy, tuy thâm hụt thương mại năm đã giảm xuống so với   các năm 2007 và 2008 nhưng đây vẫn là mức rất cao so với quy mô của nền kinh   tế Việt Nam. 
-              Ngày 10/02/2010, Ngân hàng Nhà   nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng thêm 3.3%, đưa   mức trần tỷ giá chính thức lên 18,9320 VND/USD + 3%. Ngày 11/02/2011,NHNN   tiếp tục phá giá tiền đồng thêm 9.3%, đưa mức tỷ giá chính thức lên 20,693   VND/USD +1%. Nhiều nhận định cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ   ảnh hưởng tới đà tăng giá của hàng hóa trong nước, vì tổng kim ngạch xuất   nhập khẩu hiện nay đã bằng khoảng 1.5 lần GDP và nền kinh tế Việt Nam chủ yếu   là nhập khẩu hơn là xuất khẩu. 
-              Tiền đồng bị mất giá tổng cộng   11.17% từ tháng 11/2009. Nguyên nhân chủ yếu là tài khoản vãng lai bị thâm   hụt lớn, lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh   tế gia tăng. So với các nước trong khu vực, tiền đồng đang bị mất giá   mạnh ngay cả khi tính theo tỷ giá chính thức. Cụ thể, VND mất giá hơn 20% so với   đồng Yên của Nhật Bản, hơn 17% so với đồng tiền của Thái Lan và Malaysia, gần   8% so với đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. 
tiền đồng mất giá, long tin của dân chúng vào đồng nọi tệ giảm mạnh,   dân chúng không còn muốn gửi tiền vào ngân hàng gây khó khăn cho việc huy động   của các ngân hàng. Chính điều này đã làm cho lãi suất không ngừng tăng mạnh. 
-           Mặc dù tăng trưởng GDP cao nhưng chất lượng tăng trưởng của   nền kinh tế Việt Nam lại rất thấp. Điều này thể hiện qua hệ số ICOR dự báo   lên đến 6.3 lần trong năm 2010, và tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào dòng vốn đầu   tư và chi tiêu của khu vực công. Việc tái cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng   trưởng chưa có nhiều chuyển biến trong năm 2010. Điều này đã gây nên những lo   ngại về tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Chỉ số icor quá   cao chứng tỏ việc sử dụng vốn của VN chưa đạt được hiệu quả cao. 
Do hiệu quả của các gói   kích cầu cộng hưởng với các nguyên nhân khác như thiên tai, giá hàng hóa thế   giới tăng, vấn đề sử dụng vốn kém hiệu quả…. Áp lực lạm phát  tăng mạnh gây bất ổn trong nền kinh tế.   Tính trung bình, lạm phát trong các tháng 9, 10   và 11 năm 2010 tăng mạnh nhất so với cùng kỳ 20 năm gần đây. Lũy kế trong 11 tháng, CPI đã lên tới 9.58% và lạm phát năm 2010 gần   như chắc chắn sẽ cao hơn hai con số. Đây là mức lạm phát cao nhất kể từ năm   1992 đến nay, ngoại trừ năm 2007 và 2008. Lại một lần nữa, nền kinh tế Việt Nam đứng trước   nguy cơ lạm phát, và cũng lại một lần nữa chính phủ lại chuyển mục tiêu từ   tăng trưởng kinh tế chuyển hướng sang kiềm chế lạm phát bằng các công cụ đang   nắm giữ: 
Chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngày 5/11, NHNN quyết   định điều chỉnh các lãi suất thêm 1%, lãi suất cơ bản lên 9%, lãi suất tái   cấp vốn lên 9%, lãi suất tái chiết khấu lên 7%. Động thái này cho thấy NHNN   đang sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để phòng chống lạm phát. Trong thời   gian qua, NHNN cũng đã hạn chế cung tiền qua thị trường mở. 
Thông tư 13: Thông tư 13 yêu cầu   nâng hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9%, tăng vốn điều lệ các ngân   hàng lên 3000 tỷ và quy định số tiền cho vay không quá 80% huy động được.  
        Tuy đã kịp thời đưa ra một số biện pháp  cụ thể nhằm giải quyết tình trạng lạm phát   tuy nhiên, kinh tế Việt Nam đã dừng lại ở mức tăng trưởng GDP là 6,78% và tỷ   lệ lạm phát ở mức 11,8%. Đây có thể là một kết thúc tương đối thành công cho   năm hồi phục của kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, những diến biến của 2010 đã cho   chúng ta nhận ra bóng mây lạm phát đang dần bao phủ nền kinh tế Việt Nam và   đó chính là thách thức mà chính phủ Việt Nam phải giái quyết trong năm 2011 với   bài toán lớn “ LẠM PHÁT” 
VII.         V. Kinh tế Việt Nam 2011 và bài   toán lớn :” LẠM PHÁT” 
Năm 2011, chính phủ đặt   mục tiêu chính là kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Tuy nhiên, với tình trạng   lạm phát cao, những bất ổn của nền kinh tế, áp lực tăng tỷ giá, lãi suất và mức   giá của hàng hóa trên thế giới thì đây quả là một mục tiêu lớn và khó thực hiện.   Để cụ thể hóa quyết tâm đó, ngày 24/2/2011 chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về   một số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,   bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011. Với 6 nhóm giải pháp cụ thể: 
-   Thứ nhất, thực hiện chính sách tài khóa   thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. 
-   Thứ hai, thực hiện chính sách tiền tệ   chặt chẽ, thận trọng. 
-   Thứ ba, thúc đẩy sản   xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm   năng lượng. 
-   Thứ tư, điều hành giá, điều chỉnh giá   điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo 
-   Thứ năm, tăng cường bảo đảm an sinh xã   hội. 
-   Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin,   tuyên truyền. 
Trong các nhóm giải pháp này, 2 công cụ được chính phủ sử dụng   một các triệt để nhất vẫn là chính sách tiền tệ thắt chặt và tài khóa thắt chặt: 
-      Chính sách tài khóa: Chỉ đạo phấn đấu tăng   thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011 Tạm dừng trang bị mới xe   ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước,   điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí cho các việc   chưa thật sự cấp bách. Tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết,   sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước… Chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm   10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 của Bộ Tài   chính. Giảm bội chi ngân sách nhà nước   năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Tham gia các   đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân   sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác định cụ   thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong   năm 2011. Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng   đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước 
-     Chính sách tiền  tệ: Phối hợp với Ngân hàng Nhà   nước Việt Nam và các Bộ, cơ quan, địa phương trong việc phối hợp hài hòa giữa   chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát.Tập trung ưu   tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông   thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và   tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động   sản, chứng khoán.Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, cơ quan,   địa phương trong việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; ngăn chặn   hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.Tăng cường quản lý ngoại   hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là   các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có   nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ,   bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và   tăng dự trữ ngoại hối. 
Nghị   quyết 11 đã được thông qua, trở thành kinh chỉ nam cho các quyết định của nền   kinh tế. Tuy nhiên, sự biến động bất thường của kinh tế toàn cầu mà tác động   to lớn nhất là sự tăng giá các nguyên liệu đầu vào như xăng dầu và mặt hàng   nhạy cảm như vàng đã kiến nghị quyết 11 chưa phát huy tác dụng trong ngắn hạn. 
-   Niềm tin vào đồng nội tệ ngày càng giảm,   nhân dân không còn mặn mà với việc gửi tiền vào ngân hàng làm các ngân hàng   khó khăn trong việc tiếp cận vốn, và cách làm hiệu quả nhất để huy động là   tăng lãi suất, một cuộc đua lãi suất giữa các NHTM khiến NHNN phải can thiệp   bằng cách đặt mức lãi suất trần 14%/năm. 
-     Lãi suất phi mã, thị trường chứng khoán sụt giảm, hàng loạt doanh   nghiệp kêu cứu, NHNN buộc phải bơm thêm 70.000 tỉ VND cứu TTCK hồi tháng 6, 100.000   tỉ VND tiền cho vay ngoại tệ, tiền “hỗ trợ” các ngân hàng trước áp lực lãi   suất, các tập đoàn như Vinashin, EVN, Dung Quất..  và hàng loạt các dự   án “trên trời, dưới đất” khác của CPVN (chẳng hạn đề án giáo dục 70.000 tỉ   VND).. 
ð                 Tổng cộng lại, VND được NHNN in ra thị trường liên   tục, bất tận, vô hạn định chỉ trong thời gian ngắn, góp phần làm tính trạng   lạm phát của VN càng thêm trầm trọng 
-   Trước tình hình bất ổn của nền kinh tế thế giới, trong khi   dự trữ ngoại hối của Việt Nam ở mức thấp, chỉ đạt khoảng 8 tuần nhập khẩu, để   tăng dự trữ và củng cố sức mạnh kinh tế, hồi tháng 6, NHNN thông báo đã tung   ra 84.000 tỉ để thu mua 4 tỉ USD, đến tháng 7 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước   cho biết tổng cộng họ đã mua vào tổng cộng trên 6 tỉ USD.  Và biện pháp thể hiện sự quyết tâm can   thiệp thị trường tiền tệ của chính phủ chính là quyết định cấm trao đổi USD   trên thị trường tự do. Việc thu gom một lượng lớn USD và bơm thêm hàng chục   nghìn tỉ ra thị trường càng làm đồng nội tệ bị rớt giá. 
-     Trong   năm 2010 giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5%   (tổng cộng 2 lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Đầu năm 2011   tiếp tục tăng  giá điện thêm 15,3% (từ   01/03/2011), giá xăng dầu thêm 18% (24/0202011).sự tăng giá của xăng và điện   làm cho những cố gắng kìm chế lạm phát cảu CPVN  khó có thể phát huy tác dụng. 
-     Giá   Vàng biến động với những diến biến khó lường, đặc biết, trong thời gian gần   đây, giá vàng tăng đột ngột đã khiến một lượng tiền lớn trong các ngân hàng   được người dân chuyển sang đầu tư vàng. Việc dân chúng rút một lượng tiền lớn   để đầu tư vàng đã đe dọa tính thanh khoản của các NHTM, đẩy các NH vào tình   trạng vô cùng khó khăn. Hơn thế nữa, giá vàng tăng giảm khó lường làm nền   kinh tế Việt Nam trở nên bất ổn hơn bao giờ hết. Nhằm bình ổn giá vàng trong   nước, cuối tháng 8, NHNN đã chấp nhận bỏ ra một khoản ngoại tệ lớn để nhập   khảu 5 tấn vàng trong khi giá vàng đang ở mức cao. 
Hiện nay lạm phát đang là vấn đề quan tâm hàng đầu   ở Việt Nam qua 6 tháng đầu năm với mức lạm phát   13,29%, đến hết tháng 7 đã tăng lên   14,61%. Kiềm chế lạm phát trở thành mục tiêu hàng đầu của nền kinh tế Việt   Nam 
 
Chỉ số gía tiêu dùng(CPI) tháng   7(1.17%) đột ngột tăng trở lại sau hai tháng giảm tốc, cao hơn mức độ 1,09%   của tháng trước nâng mức tăng chung của 7 tháng đầu năm lên hơn 14,6%, tăng   hơn 22,16% so với cùng kì,  trong khi   hiện nay Trung Quốc lạm phát 6,4%, Thái Lan 4%, Indonesia 5,5%, Philippines   4,7%. 
Và đến thời   điểm này, dường như nghị quyết 11 đã bắt đầu phát huy tác dụng, nền kinh tế   đã dần đi vào ổn định hơn so với những tháng đầu năm, lạm phát đã bắt đầu chậm   lại, tốc độ tăng giá CPI tháng 9 chỉ còn khoảng 0.8%, thấp nhất trong 9 tháng   đầu năm. Lãi suất ngân hàng đã bắt đầu hạ nhiệt, lãi suất huy động được NHNN   kiên quyết giữ trần ở mức 14% và lãi suất cho vay chỉ còn khoảng 17 – 19%. Và   vẫn còn 3 tháng nữa trước  khi năm 2011   khép lại, dù đã xuất hiện những dấu hiệu chuyển biến tích cực của nền kinh tế   nhưng phía trước vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ lạm phát năm 2011 sẽ  vẫn ở mức 2 con số dự báo tỷ lệ lạm phát sẽ   giảm dần nhưng liệu Việt Nam có lại rơi vào một cuộc khủng hoảng mới tương tự   tình trạng cuối năm 2008 – đầu 2009, tất cả vẫn còn là ẩn số.  
VI.Lời kết 
Giai đoạn từ   2008 đến 2011 và sẽ còn kéo dài trong những năm tiếp theo có thể coi là giai   đoạn nhiều sóng gió nhất đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ khi bước sang thế   kỷ 21. Bài toán lớn “lạm phát” luôn là một bài toán khó, và cái khó nhất   chính là ở chỗ chúng ta chỉ có thể lựa chọn hoặc là chấp nhận lạm phát để   tăng tưởng, hoặc là chấp nhận đi chậm lại để kìm chế lạm phát. Với việc quá   chú trọng đến tốc độ tăng trưởng, Việt Nam đã phải trả giá, nền kinh tế Việt   Nam đã phải hứng chịu những tổn thất nặng nề. Điểm hạn chế lớn nhất của chính   phủ Việt Nam chính là việc quá lạm sức mạnh của mình để can thiệp vào nền   kinh tế, quá lạm dụng các công cụ tiền tệ, tài khóa và các gói kích cầu mà   chưa đánh giá được hết những vẫn đề còn tồn tại, quá tập chung vào việc hồi   phục trong ngắn hạn, giải quyết bất ổn, đạt được mục tiêu đề ra với tốc độ   nhanh nhất, mà chưa suy xét kỹ đến hệ quả trong dài hạn, quá chú trọng đến tốc   độ tăng trưởng nhưng chất lượng tăng trưởng lại chưa cao, gây nhiều tác dụng   phụ. Liệu sau năm 2011, kinh tế Việt Nam sẽ đi đến đâu, sẽ trở lại đúng quỹ đạo   tăng trưởng bền vững hay lại rơi vào một giai đoạn bất ổn kế tiếp, tất cả vẫn   đang là một câu hỏi lớn. Tuy nhiên, với những kinh nghiệm đã tích lũy được,   chúng ta nên tin tưởng và hi vọng Chính phủ VN sẽ tìm ra hướng đi phù hợp,   kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của các thế lực   kinh tế bên ngoài. Các bạn có thể down slide thuyết trình tại đây. | 







 
No comments:
Post a Comment