CÁC HÌNH THỨC VAY NỢ CỦA NHÀ NƯỚC
I - Vay nợ trong nước của
chính phủ
1.Trái phiếu chính phủ
a-Tín
phiếu kho bạc nhà nước
Là
loại trái phiếu (giấy vay nợ ngắn hạn) có kỳ hạn dưới một năm do kho bạc nhà
nước phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Đặc
điểm:
-
Lãi suất: cao.
-
Đặc điểm loại
chiết khấu: Chiết khấu hoặc mang mệnh giá.
-
Thời hạn: 3
tháng, 6 tháng, 9 tháng, hoặc 1 năm với nhiều mức mệnh giá.
-
Hình thức phát
hành: Đấu thầu, phát hành trực tiếp qua kho bạc, phát hành qua đại lý trên thị
trường thứ cấp.
-
Tính thanh khoản:
cao nhất.
-
Mức độ rủi ro vỡ
nợ: Vì uy tín của chủ thể phát hành nên mức độ rủi ro của tín phiếu kho bạc rất
thấp so với các công cụ trên thị trường tiền tệ hay có thể coi là không có rủi
ro tín dụng.
-
Năm 2008 huy động
được 20.730 tỷ đồng, năm 2009 là 10.714 tỷ đồng và năm 2010 huy động được 8.350
tỷ đồng.
b-
Trái phiếu công trình:
Huy
động vốn cho công trình đầu tư cụ thể thường là để xây dựng những công trình cơ
sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng.
VD
dự án đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình.
+ Do
chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành, có kỳ hạn từ 1 năm
trở lên.
c-Trái phiếu ngoại tệ:
Là
loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn từ 1 năm trở lên, nhưng được thể hiện dưới
dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn). Nhằm huy động tiền bằng
ngoại tệ của dân chúng.
+
Rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán,
thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.
loại
trái phiếu này không phổ thong
d - Công trái xây dựng Tổ quốc:
Việc
phát hành Công trái xây dựng tổ quốc được phát hành từng đợt, không mang tính
thường xuyên mà chỉ gắn với những lĩnh vực nhất định, chẳng hạn công trái phục
vụ cho lĩnh vực giáo dục, giao thông…
+ Nó
có tính chất như trái phiếu, nhưng có lãi suất thấp hơn vì nó không mang tính
chất vay vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách mà để động viên người dân cho chính
phủ vay vốn để đầu tư vào các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước.
VD:
năm 2005, nhà nước phát hành công trái Giáo dục có thời hạn 5 năm, lãi suất
8,5%/năm.
2. Trái phiếu chính quyền địa phương:
Là
các loại trái phiếu có thời hạn 1 năm trở lên do chính quyền địa phương phát
hành để huy động vốn cho các dự án đầu tư như công trình cơ sở hạ tầng hay phúc
lợi công cộng của địa phương.
+ Việc
phát hành loại trái phiếu này do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho kho bạc
nhà nước hoặc tổ chức tài chính tín dụng trên địa bàn phát hành trái phiếu này
va chịu trách nhiệm bố trí ngân sách tỉnh, thành phố để trả nợ.
3. Vay trực tiếp:
Chính
phủ có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các các thể chế siêu
quốc gia (ví dụ: Quỹ tiền tệ Quốc tế) Hình thức vay nợ này thường được Chính
phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ
bằng hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ của họ không cao.
Ưu
điểm:
Đây
là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không
cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này
được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
Tập
trung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được nguy cơ khủng
hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai
Nhược điểm:
Việc khắc phục
thâm hụt ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có
thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên
tục tăng. Hơn nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng khu vực tư
nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong
nước.
Chứa đựng nguy cơ
kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Tổng lượng tiền
mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính phủ vay bị giới hạn trong tổng
lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy động được nhiều thì đương nhiên
phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở khu vực
ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.
Như
vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng tiền huy động
được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh nghiệp và dân cư đó
sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh
tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân hàng càng có lãi
suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp
và dân cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh
doanh.
ðBiện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực
hiện trong trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân
sách bằng cách phát hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân
trách nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu
đấy. Nó tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi những thâm hụt ngân sách
nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có sức sinh lời)
+ Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ
Thực
tế hiện nay, lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn không đáp ứng được lãi suất kỳ
vọng của thị trường nên phát hành trái phiếu luôn bị thất bại. Hậu quả có khi
cũng tệ không kém, thị trường gần như không có thanh khoản.
Liên
hệ tình hình vay nợ của Việt Nam trong những năm gần đây:
- Số phát hành vay trong nước năm 2009 vượt dự toán tới 24,15% và vay nước ngoài vượt tới 71,1% dự toán do cần nguồn lực tài chính đối phó khủng hoảng. Ngược lại, năm 2010 do khó khăn huy động trong nước nên vay trong nước giảm gần 17% so dự toán trong khi vay ngoài nước lại tăng tới 47,6% để bù đắp lại.
Giai
đoạn 2006-2010 khác các giai đoạn trước khi nguồn bù đắp thâm hụt NSNN dựa chủ
yếu vào vay trong nước với tỷ trọng chiếm từ 2/3 đến trên 4/5, ít nhất là trong
dự toán NSNN, theo đó, biến động của lạm phát sẽ quan trọng hơn so với biến
động của tỷ giá hối đoái đối với nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, trong thực tế thì
năm 2006 và 2008 cơ cấu vay nợ bù đắp bội chi lại đảo ngược so với dự toán theo
chuẩn quốc tế trong khi theo chuẩn Việt Nam vẫn cơ bản phù hợp dự toán chứng tỏ
phần vay để bù đắp khoản thâm hụt mới phải dựa vào vay nước ngoài trong khi vay
trong nước chủ yếu để thanh toán các khoản nợ cũ.
- Tính
chung giai đoạn 2006-2010, tổng số nợ phát hành là 409.857 tỷ VND (tương đương
21,%GDP năm 2010), trong đó, tổng nợ phát hành trong nước là 306.065 tỷ VND,
chiếm 74,7% tổng số nợ phát hành (tương đương 15,7%GDP năm 2010). Trong tổng số
nợ phát hành 5 năm có 219.162 tỷ VND trả nợ gốc, chiếm hơn tổng số nợ phát
hành, trong đó trả nợ gốc vay trong nước chiếm 82,3% tổng số trả nợ gốc. Tổng
số nợ mới phát sinh để bù đắp thâm hụt NSNN 5 năm 2006-2010 là 190.695 tỷ VND
(tương đương 9,77%GDP năm 2010), trong đó, tổng nợ mới phát sinh trong nước là
125.763 tỷ VND, chiếm gần 66% tổng số. Rõ ràng, trong giai đoạn 2006-2010,
nghĩa vụ nợ Chính phủ đã và đang gia tăng nhanh chóng, trong đó chủ yếu là vay
nợ trong nước. Nếu tính thêm cả phần Chính phủ vay về cho vay lại (vay nước
ngoài) thì tổng nợ của Chính phủ (số phát hành) 5 năm qua lên tới 506.776 tỷ
VND, xấp xỉ 26%GDP năm 2010, trong đó nợ nước ngoài chiếm 39,6%, tương đương
10,3% GDP năm 2010.
II - Vay nợ nước ngoài
1. Vay viện trợ phát triển chính thức
a
- Khái niệm
Là
các khoản vay nhân danh nhà nước, Chính phủ từ các nhà tài trợ là nước ngoài:
các tổ chức song phương( WB, IMF, ADB…), các tổ chức liên quốc gia hoặc liên
chính phủ có thể như các tổ chức phi chính phủ(NGO).
b-
Ưu và nhược điểm
Ưu điểm
-
Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ
0.25%năm)
-
Thời gian cho vay
cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn
8-10 năm)
-
Trong nguồn vốn
ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn
ODA.
-
Nhược điểm
Các
nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng
thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc
phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng
hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu
tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội
trong nước, khu vực và trên thế giới ít, giải ngân chậm
-
Về kinh tế, nước
tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công
nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp
nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh
mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu
tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có
khả năng sinh lời cao
-
Nguồn vốn ODA từ
các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản
phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết
đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án
và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn
90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn
dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên
thị trường lao động thế giới).
-
Nguồn vốn viện
trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các
sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận
một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
-
Nước tiếp nhận
ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự
án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp
điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc
hỗ trợ chuyên gia.
-
Tác động của yếu
tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho
giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
-
Ngoài ra, tình
trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng
vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm
trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả
và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy
nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần
c- Các hình thức viện trợ
·
Viện trợ song phương:là viện trợ giữa các nước có những thỏa thuận tay đôi với nhau, thông
qua một tổ chức của chính phủ, cơ quan quản lí viện trợ hay chương trình hợp
tác phát triển kinh tế với nước ngoài của chính phủ nước viện trợ. Ví dụ như:
Năm tài chính 2009/2010, tổng viện trợ của Canada dành cho Việt Nam thông qua
các hình thức song phương, đa phương, khu vực, đối tác và các tài trợ khác đạt
89,5 triệu CAD (trong đó viện trợ song phương là 23 triệu CAD). Trong năm tài
chính 2010/2011, viện trợ song phương của Canada dành cho Việt Nam đạt 27 triệu
CAD, ngoài ra còn song phương với NHẬT BẢN
·
Viện trợ đa phương: là viện trợ giữa các quốc gia được thưc hiện thông qua tổ chức nào đó
như: WB, IMF...... ví dụ việt nam có quan hệ đa phương với nhật, mỹ, canda.
anh…
·
Viện trợ không
hoàn lại:là sự kết hợp giữa hai hình
thức trên. Đối với hình thức này thì thành lập loại quỹ chung và loại quỹ ủy
thác. Để nhận được viện trợ thì các nước phải xây dựng trước các dự án để vận
động. Vi dụ như: Vương quốc Anh đã cung cấp viện trợ không hoàn lại cho Việt
Nam từ năm 1992, với tổng số tiền viện trợ tới nay lên đến 378 triệu bảng
Anh,…ngoai ra ta còn được nhật viên trợ về mặt điện tử…
·
Viện trợ của
tổ chức phi chính phủ: là viện trợ do
các tổ chức phi chính phủ viện trợ. Nhăm mục đích nhân đạo khắc phục hậu quả
chiến tranh, thiên tai, giải quyết các vấn đề xã hội…. Action ATD, care
Quốc tế, MCC, OxfamBỉ và các tổ chức Oxfam Anh và tổ chức NARV
2. Vay có tính chất thương mại:
a- Định nghĩa:
Là những khoản vay dựa trên quan hệ cung cầu
về vốn vay trên thị trường, lãi suất do thị trường quyết định, không chịu bất
cứ ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế hay chính trị.
b- Đặc điểm: Đối với những khoản vay này thì người cấp vốn
vay không tham gia vào hoạt động của người đi vay, nhưng trước khi cho vay thì
phải nghiên cứu hết sức chắc chẽ đối với các dự án đầu tư, hoặc thường có yêu
cầu về bảo lãnh hay thế chấp để có thể giám bớt rủi ro khi cho vay.
Ưu
điểm:
-
Đối tượng đi vay
không chịu bất cứ ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế hay chính trị
-
Hiệu quả sử dụng
vốn vay thương mại cao hơn so với các khoản vay ưu đãi
Nhược điểm:
-
Lãi suất biến
động theo thị trường, không ổn định. Trong thời gian gần đây và các năm tới,
lãi suất vay thương mại sẽ tăng lên
-
Trong trường hợp
không trả được các khoản vay thương mại, quốc gia sẽ bị mất uy tín trên trường
quốc tế và ảnh hưởng đến các khoản vay sau này
-
Gắn liền với nhu
cầu sử dụng vốn dự phòng của ngân sách Nhà nước và có thể làm cho tình hình vay
nợ nước ngoài của Việt Nam bị xấu đi
Thực
trạng các khoản vay có tính chất thương mại của VN
- Chiếm
19,92% tổng vay nợ nước ngoài
- Lãi
suất
Trên
1,5 tỷ USD lãi suất từ 3-5,99%
919
triệu USD ở mức lãi suất 6-10%.
Hơn
1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo LIBOR 6 tháng và LIBOR
Euro 6 tháng.
- Lợi
suất lên đến hơn 7% đối với khoản 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ ngoại tệ.
Nhận xét
- Lãi
suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Điều này có thể là hệ quả
của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cũng như việc uy
tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện
Vinashin.
- Trong
10-20 năm tới đây, VN sẽ thuộc những quốc gia không được hưởng những nguồn vốn
ưu đãi nữa mà phải vay thương mại nhiều hơn, vì thế chi phí nợ sẽ tăng lên,
điều này buộc các khu vực DN, cả Nhà nước, tư nhân và các ngân hàng phải tính
đến nợ dự phòng, rủi ro về hối đoái và tái cấp vốn
3. Vay ưu đãi
a-
Định nghĩa: là các khoản vay có
điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng ưu đãi không đạt theo tiêu
chuẩn chung của ODA
b- Vai trò
·
Hỗ trợ các doanh
nghiệp về vốn
·
Phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
·
Cung cấp trang
thiết bị, hạ tầng kinh tế, xã hội
·
Chống biến đổi
khí hậu, hộ trợ trực tiếp người dân …
c-
Đặc điểm
Ưu điểm: nguồn vốn được vay với lãi suất thấp, thời gian trả
nợ dài….
Nhược điểm: hiệu quả sử dụng vốn không cao, quốc gia vay nợ phải
đáp ứng ngày càng nhiều các điều kiện….
Thực
trạng về các khoản vay ưu đãi ở Việt Nam
Vay
ưu đãi chiếm 5,41% tổng vay nợ nước ngoài
Lãi
suất giao động từ 1 -1,5%
Chủ
nợ của các khoản vay ưu đãi chủ yếu là
ADB, WB, các nước phát triển…
Những
năm gần đây, vay ưu đãi giảm do Việt Nam đã là một nước có thu nhập trung bình
Nhân
định về tình trang vay nợ của việt nam từ năm 2009 đến nay
Việt
Nam đã có một số dấu hiệu cho thấy “độ nóng” của nợ nước ngoài trong thời gian
gần đây đã tăng nhanh, cả về định tính và định lượng.
Thứ
nhất: quy mô nợ tăng nhanh và vượt dự báo. Theo Bản tin nợ nước ngoài của Bộ Tài chính,
đến ngày 31-12-2009, tổng nợ nước ngoài, gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ
do Chính phủ bảo lãnh hơn 27,9 tỷ USD, tương đương 479.500 tỷ đồng. Trong đó,
nợ nước ngoài của Chính phủ trên 23,9 tỷ USD. Đến cuối năm 2010, nợ nước ngoài
của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh đạt 32,5 tỷ USD (trong đó tổng dư nợ
nước ngoài của Chính phủ 27,86 tỷ USD, chiếm 85,7% tổng dư nợ), tương đương
42,2% GDP năm 2010 và tăng 4,6 tỷ USD so với năm 2009, đạt mức nợ cao nhất kể từ
năm 2005. Cần lưu ý con số 42,2% GDP cũng cao hơn nhiều so với mức 38,8% mà
Chính phủ dự kiến cuối năm 2010.
Thứ
hai: dịch vụ nợ tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ cũng giảm nhiều. Dịch vụ nợ nước ngoài của nước ta trong năm 2010 là
1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so
với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009. Dịch vụ nợ Chính phủ so với tổng ngân sách
nhà nước năm 2009 là 5,1% (ngưỡng an toàn của Ngân hàng Thế giới - WB - đưa ra
dưới 35%).
Tuy
nhiên, dịch vụ nợ nước ngoài năm 2010 bằng 50% tổng đầu tư phát triển cùng năm
ngân sách. Một con số không hề nhỏ trong quy mô khiêm tốn của ngân sách nhà
nước hiện nay. Đặc biệt, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối nước
ta trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so
với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008, trong khi mức khuyến nghị
của WB trên 200%.
Việc
mua vào thêm 4 tỷ USD trong những tháng đầu năm 2011 ít nhiều đã cải thiện tỷ
lệ an toàn này. Tuy nhiên, việc mua vào này không phải là giải pháp bền vững
xét dưới góc độ chống lạm phát tiền tệ, vì nó dễ trở thành nguồn xung lực làm
tăng lạm phát tiền tệ.
Thứ
ba, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn. Bộ Tài chính cho biết lãi suất vay nợ đang có xu
hướng tăng lên do nước ta đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập nhóm nước có
thu nhập trung bình. Các khoản vay nước ngoài đa số có lãi suất thấp và trong
tổng nợ cuối năm 2009, vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%, vay ưu đãi chiếm 5,41%,
vay thương mại 19,92%... Qua năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1-2,99%/năm
chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ.
Tuy
nhiên, khoản vay có lãi suất cao 6-10%/năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89
tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của Việt Nam vẫn là Nhật
Bản, Pháp, ADB, WB... Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu chính phủ
Việt Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với hơn 1 tỷ USD của năm 2009).
Vấn
đề đặt ra lúc này là dù tự tin và thận trọng, cần phải “rung chuông” tự cảnh
cảnh báo rằng mức nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu đựng của
nền kinh tế và so với khả năng trả nợ (mấp mé dưới mức cảnh báo an toàn của
WB). Vấn đề càng nhạy cảm hơn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang bao phủ
toàn cầu, đe dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào vòng xoáy khủng hoảng tồi
tệ mới vô tiền khoáng hậu.
Vì
thế, đây là lúc phải tỉnh táo để thấy rõ sự thực rằng nếu khủng hoảng nợ công
xảy ra, Việt Nam sẽ phải “một mình vượt cạn”, khó trông cậy vào sự cứu trợ “giá
rẻ “hay vô tư nào từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực
và quốc tế, giống như việc Liên minh châu Âu đang cứu giúp các nước thành viên
khỏi “cơn bão” nợ công với những điều kiện ngặt nghèo.
Các số liệu
Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài
Chỉ
tiêu
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Nợ
so với GDP
|
31,4
|
32,5
|
29,8
|
39
|
42,2
|
Nợ
khu vực công so với GDP
|
26,7
|
28,2
|
25,1
|
29,3
|
31,1
|
Trả
nợ trung - dài hạn so với xuất khẩu
|
4
|
3,8
|
3,3
|
4,2
|
3,4
|
Trả
nợ của Chính phủ so với thu ngân sách
|
3,7
|
3,6
|
3,5
|
5,1
|
3,7
|
Dự
trữ ngoại hối so với nợ ngắn hạn
|
6.380
|
10.177
|
2.808
|
290
|
187
|
Nợ
dự phòng của CP so với thu ngân sách
|
4,5
|
4,6
|
4,7
|
4,3
|
5,8
|
Nợ nước ngoài năm 2010 phân theo nhóm
cho vay và chủ nợ
2009
|
2010
|
|
TỔNG
CỘNG
|
27.929
|
32.500
|
Các
chủ nợ chính thức
|
24.149
|
29.139
|
-
Song phương
|
13.278
|
14.690
|
-
Đa phương
|
10.931
|
12.449
|
Các
chủ nợ tư nhân
|
3.779
|
5.362
|
-
Người nắm giữ trái phiếu
|
1.038
|
2.020
|
-
Các ngân hàng thương mại
|
2.583
|
3.195
|
-
Các chủ nợ tư nhân khác
|
158
|
147
|
NỢ
CỦA CHÍNH PHỦ
|
23.943
|
27.858
|
Các
chủ nợ chính thức
|
22.465
|
25.421
|
-
Song phương
|
11.566
|
12.999
|
-
Đa phương
|
10.899
|
12.422
|
Các
chủ nợ tư nhân
|
1.478
|
2.437
|
-
Người nắm giữ trái phiếu
|
1.038
|
2.019
|
-
Các ngân hàng thương mại
|
350
|
334.14
|
-
Các chủ nợ tư nhân khác
|
89
|
83.26
|
NỢ
CHÍNH PHỦ BẢO LÃNH
|
3.986
|
4.643
|
Các
chủ nợ chính thức
|
1.685
|
1.718
|
-
Song phương
|
1.652
|
1.691
|
-
Đa phương
|
33
|
27
|
Các
chủ nợ tư nhân
|
2.301
|
2.925
|
-
Các ngân hàng thương mại
|
2.232
|
2.861
|
-
Các chủ nợ tư nhân khác
|
69
|
64
|
Dư nợ nước ngoài của Chính phủ theo loại
tiền
Loại
tiền tệ
|
Dư
nợ
|
Đôla
Australia
|
32,19
|
Đôla
Canada
|
77,67
|
Franc
Thụy Sĩ
|
42,9
|
Nhân
dân tệ
|
162,2
|
Krone
Đan Mạch
|
2,65
|
Euro
|
2.558,54
|
Bảng
Anh
|
83,89
|
Rupi
Ấn Độ
|
17,91
|
Yen
Nhật
|
10.817,18
|
Won
Hàn Quốc
|
207.31
|
Dinar
Kuwait
|
18,05
|
Ringgit
Malaysia
|
0,55
|
Krone
Na Uy
|
86,54
|
Đôla
New Zealand
|
0,18
|
SDR*
|
7.538,65
|
Krone
Thụy Điển
|
35,19
|
Baht
Thái Lan
|
2,01
|
Đôla
Mỹ
|
6.174,17
|
TỔNG
CỘNG
|
27.857,16
|
(Tính đến 31/12/2010)
Một
số đề xuất nhằm quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam
Phát triển nội lực nền kinh tế
Phát
triển nội lực nền kinh tế cần tập trung vào vấn đề gia tăng hàm lượng giá trị
gia tăng trong xuất khẩu bằng cách: Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất
hàng xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ;
tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều sản phẩm
tinh và ít sản phẩm thô hơn; đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại,
nâng cao nhận biết và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm của Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Xây dựng môi
trường tài chính hiệu quả
Công
khai, minh bạch về tài chính
Đây
là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị
công nói chung, quản trị tài khóa và đặc biệt là trong quản trị nợ công. Theo
hướng dẫn quản lý nợ công của IMF (2003) cũng như Cẩm nang minh bạch tài khóa
(2007), cần đặc biệt nhấn mạnh một số yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất: xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các
cơ quan của Chính phủ. Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải
trình
trong
việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa.
Thứ hai: khu vực chính phủ phải được tách bạch rõ ràng ra khỏi
phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và
vai trò quản lý của khu vực công phải rõ ràng và được công bố công khai.
Thứ ba: về quản lý nợ, pháp luật quản lý nợ nên giao trách
nhiệm rõ ràng cho một cá nhân, thường là Bộ trưởng Tài chính trong việc: Lựa
chọn các công cụ cần thiết cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác
định giới hạn nợ (nếu luật không quy định rõ) - thường là dựa vào chiến
lược nợ bền vững; thiết lập và kiểm soát cơ quan/tổ chức có trách nhiệm quản lý
nợ (thuộc quyền hoặc nằm ngoài) và thiết lập quy chế quản lý nợ.
Thứ tư: luật phải quy định cụ thể tất cả các khoản chính phủ
bảo lãnh. Luật cũng phải xác định rõ vai trò của Ngân hàng Trung ương sao cho
việc phát hành quỹ chứng khoán không bị lẫn với các biện pháp nghiệp vụ thuộc chính
sách tiền tệ. Tất cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản ngân hàng
dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải
được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan
lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng
chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ trình cơ quan lập
pháp và công khai cho công chúng.
Ngoài
ra: cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và
dự tính cho tương lai. Điều này hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ
còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa tình huống xấu xảy ra.
- Cải cách hành chính
Việc
cải cách hành chính nhà nước cần được thực hiện trên tất cả các nội dung: Thể
chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức,... Trong đó, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của cơ quan nhà nước, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành
chính trong giải quyết khiếu nại của nhân dân; thực hiện tốt việc tiếp nhận ý
kiến, phản hồi của người dân. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần phải được đơn
giản hóa và thông tin đầy đủ trên cổng thông tin điện tử của bộ, địa phương để
tạo thuận lợi tối đa cho người dân, cơ quan, tổ chức nhằm tiết kiệm chi
phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong cải cách thủ
tục hành chính. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách
tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc, nâng cao
chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán
và hoạt động ngân hàng, cụ thể:
+
Về hoạt động kiểm toán: Tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ
hàng năm.
+
Về hoạt động ngân hàng: Đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng cán bộ tín
dụng. Cần phải hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn
nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp
đồng và văn hoá kinh doanh. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín
dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về
tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ.
Thay đổi cơ cấu nợ công
Việt
Nam thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước
nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt
Nam
nên phát hành trái phiếu chính phủ ghi bằng nội tệ nhiều hơn. Để nâng cao chất
lượng các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức
lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.
Kiểm soát nợ công ở mức an toàn
Để
kiểm soát nợ công ở mức an toàn, cần phải xác định được đâu là mức an toàn (ví
dụ: cần phải xác định các tỷ lệ nợ công/GDP và nợ nước ngoài/GDP). Tuy nhiên,
bên cạnh đó, cần chú ý phân tích bản chất của nợ công. Đó là: nợ chính phủ là
vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,
hay lượng dự trữ quốc gia... Thực tế xảy ra trên thế giới cho thấy những nước
rơi vào khủng hoảng tài chính đều có tỷ lệ nợ trên GDP khá thấp. Ví dụ:
Argentina năm 2001, tỷ lệ đó chỉ ở mức 45%; Ukraine (2007) chỉ 13%; Thái Lan
(1996) chỉ có 15%; Venezuela (1981) chỉ có 15%; Rumania (2007) chỉ có 20%...
Sử dụng hiệu quả nợ công
Để
sử dụng hiệu quả nợ công, cần phải chú trọng vào các vấn đề sau:
-
Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư phát
triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quả
kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng cường thanh tra, giám sát
quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu.
-
Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà
thầu có năng lực nhất. Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm thầu
các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanh nghiệp nhà nước.
-
Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán
bộ trong các doanh nghiệp nhà nước.
Hình
thức vay nợ trong nước là tốt nhất
-
tận dụng được các
khoản tiền nhàn rỗi trong dân chúng
-
không phụ thuộc
vào các nước cho vay
-
hình thúc vay đa
dạng, thời hạn đi vay tương đối ngắn do vậy việc đi vay đã đựơc lên kế hoạch để
trả cho những khoản vay này.
-
hạn chế được việc
không trả được các khoản vốn lớn gây ra vỡ nợ
Lý
do ở Việt Nam, vay nợ nước ngoài lớn hơn vay nợ trong nước:
·
Do lạm phát ở
Việt Nam rất lớn, lãi suất thấp hơn cả lạm phát, do đó nếu so với Lạm phát thì
người cho vay bị lỗ
·
Vay thương mại
nước ngoài của doanh nghiệp theo phương thức tự vay tự trả có xu hướng tăng
nhanh
·
Vay nước ngoài “
rẻ” hơn vay trong nước. Vay nước ngoài hiện nay của Việt Nam có lãi suất thấp
hơn vay trong nước.Trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn nhận được nguồn vốn ODA của
các nhà tài trợ thì cần tranh thủ tối đa do tính chất ưu đãi của nguồn vốn này
·
Do trong nước nhu
cầu đầu tư lớn, đầu tư phát triển thì có bội chi ngân sách, phải có bù đắp, cân
đối trong nước không đủ, do vậy không thể không vay nước ngoài. Thông thường
trong thời gian đầu đi vay thì bao giờ dư nợ cũng tăng dần đến lúc cơ sở hạ
tầng đã tốt rồi, có thể vay trong nước thì sẽ giảm vay nước ngoài.
·
Việt Nam đã và
đang thực hiện hành loạt các dự án lớn như hầm đường bộ Hải Vân, cảng nước sâu
Cái Lân….điều này cho thấy nguốn vốn vay nước ngoài đã hỗ trợ tăng trưởng như
thế nào
·
Việt Nam chiếm
được niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, họ tin vào các chính sách kinh tế
của Việt Nam
Trong
giai đoạn thị trường ngoại hối xuất hiện tình trạng căng thẳng thì các khoản
vay nước ngoài có thể giúp can thiệp hạ nhiệt thị trường này.
No comments:
Post a Comment